Câu 11: tư duy và quan niệm
về công nhiêp hóa của ĐCSVN trong thời kỳ đổi mới
II. CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá
a) Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận
thức và chủ trương công nghiệp hoá thời kỳ 1960-1986:
- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục
tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và quản lý kinh tế, v.v…
- Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là
cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh,
không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu
hợp lý.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại
hội lần thứ V.
b) Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá từ
Đại hội VI đến Đại hội X:
- Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (1/1994) có bước
đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hóa.
- Đại hội VIII của Đảng (6/1996) nhìn nhận lại đất
nước sau 10 năm đổi mới. Đại hội nêu ra 6 quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và định hướng những nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
những năm còn lại của thập kỷ 90.
- Đến Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (4/2006),
Đảng tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số quan điểm mới về công nghiệp hóa.
2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hoá, hiện
đại hoá
a) Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Đại hội X đề ra mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức:
- Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển
-Tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
b) Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
- Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
- Coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng,
là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học
Câu 12: cơ chế quản lý kinh
tế trước thời kì đổi mới
Câu
12: Đặc điểm và các hình thức biểu hiện chủ yếu của cơ chế quản lý kinh ttes
thời kì trước đổi mới. Sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lí kinh
tế.
a. Cơ
chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
Đặc
điểm: trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế
kế hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ
nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh
nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật
tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do
các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát
vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ
thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu.
Thứ
hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất
và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu . Các doanh
nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách
nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Thứ
ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ cấp phát - giao
nộp.
Thứ
tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động,
vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Hình
thức: Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ
yếu sau:
- Bao
cấp qua giá: nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị thực nhiều lần so với giá thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế
chỉ là hình thức.
- Bao
cấp qua chế độ tem phiếu: nhà nước quy định chế độ phân phối và vật phẩm tiêu
dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ
tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ
nguyên tắc phân phối theo lao động.
- Bao
cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc
trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách, vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế
“xin - cho”.
Trong
thời kì kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác
dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục
tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình
công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại
thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực
kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của
các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn
phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm
khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có
nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước
đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem
kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ
mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ
yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là
chủ yếu, muốn nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể tư nhân; xây
dựng nền kinh tế khép kín. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
b. Nhu
cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Dưới
áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
chúng ta đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường, tuy nhiên
còn chưa toàn diện, triệt để. Đó là khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ
thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV; bù giá vào lương ở Long An;
Nghị quyết TW8 khóa V (1985) về giá - lương - tiền; thực hiện Nghị định 25 và
Nghị định 26-CP của Chính phủ… Tuy vậy, đó là những căn cứ thực tế để Đảng đi
đến quyết định thay đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập
sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố
trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực
phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải
tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội”. Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành
nhu cầu cần thiết và cấp bách.
- Câu hỏi: Trình bày đặc điểm cơ chế quản lý
kinh tế thời kỳ trước đổi mới ở nước ta.
- Đáp án:
- Thứ nhất, Nhà nước
quản lý nền kinh tế mệnh lệnh hành chính, dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh,
chi tiêu từ trên xuống dưới.
+ Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao.
+ Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho
các doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước, lỗ Nhà nước bù,
lãi Nhà nước thu.
- Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp sâu vào hoạt đống
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì vè
vât chất với các quyết định của mình., những thiệt hại vật chất nhà nước chịu,
các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cũng không bị ràng
buộc trách nhiệm kết quả sản xuất kinh doanh.
- Thứ ba, quan hệ hàng hóa bị coi nhẹ, chỉ là hình thức,
quan hệ hiện vật là chủ yếu, Nhà nước quản lý kinh tế thông qua cấp phát, giao
nộp.
+ Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian, đội
ngũ quản lý kém năng lực, quan liêu, cửa quyền, nhưng lại được hưởng quyền lợi
cao hơn người lao động.
- Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu
sau:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết
bị, vật tư, hang hoá thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị
trường. DO đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phận
phối vật phẩmtiêu dung cho cán bộ công nhân viên, theo hình thức tem phiếu.
+ Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng
không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu
quả, nảy sinh cơ chế xin – cho.
-
Khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở
áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiệnđại thì cơ chế
quản lý này càng bộc lộ những khuyết điểm của nó, làm cho kinh tế các nước XHCN
trước đây, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng trì trệ khủng hoảng
Câu 13: mục tiêu về, quan điểm
hoàn thiện thể chế KTTT dịnh hướng xhcn vn
- Câu hỏi: Trình bày mục tiêu, quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng Kết quả, ý nghĩa.
- Đáp án:
*
Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
- Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta là
làm cho các thể chế phù hợp với nhữg nguyên tắ cơ bản của KTTT, thúc đẩy KTTT định
hướng XHCN phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công, giữ vững định hướng XHCN, Xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Na
XHCN. Mục tiêu này yêu cầu phải
hoàn thành cơ bản vào 2020.
- Những năm trước mắt cần đạt được các mục tiêu:
+ Một là từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo đảm cho nền
KTTT định hướng XHCN phát triển thuận lợi.
+ Hai là đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công.
+ Ba là phát triển đồng bộ,đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất
trong cả nước , từng bước liên thông với thị trường khu vực và trên thế giới.
+ Bốn là giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá, xã hội bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Năm là nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai
trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản
lý, phát triển kinh tế– xã hội.
*
Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường…
- Đảm bảo tính đồng bộ giữa bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế, giữa các
yếu tố thị trường…
- Kế thừa cú chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại,
kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta
- Chủ động, tích cực giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng…
vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước…
* Kết quả và ý nghĩa
- Một là sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đó chuyển đổi thành
công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hai là chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được
đổi mới cơ bản từ sở hữu tũan dõn, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể là chủ yếu sang nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan
xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trũ chủ đạo, tạo động lực và điều
kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh
tế - xã hội.
- Ba là các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và kinh tế thế giới. Cơ chế thị trường
có sự quan lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được
tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển. Quản lý nhà nứơc về kinh
tế được đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động
sản xuất kinh doanh chuyển sang quản lý bằng pháp luật, chớnh sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô
khác.
-
Bốn là việc gắn phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xó hội, xóa
đói, giảm nghèo đạt hiệu quả tích cực.
Câu 14: hệ thống chính tri
1954-1975: 1975-1985
ĐUỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
I. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước
đổi mới (1945-1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng hệ thống
chính trị
Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (giai đoạn 1945 -
1954)
Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đánh dấu sự hình thành ở nước ta một hệ thống
chính trị cách mạng với các đặc trưng sau đây:
- Có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng
“Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân
tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có
ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”.
Khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” là cơ sở tư tưởng cho hệ thống
chính trị giai đoạn này.
Dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân
tộc hết sức rộng rãi: không phân biệt giống nòi, giai cáp, tôn giáo, ý thức hệ,
chủ thuyết; không chủ trương đấu tranh giai cấp. Đặt lợi ích của dân tộc là cao
nhất.
- Có một chính quyền tự xác định là công bộc
của dân, coi dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ sống và làm việc giản dị, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11 năm
1945 đến tháng 2 năm 1951) được ẩn trong vai trò của Quốc hội và Chính phủ,
trong vai trò của cá nhân Hồ Chí Minh và các đảng viên trong Chính phủ.
- Có một Mặt trận (Liên Việt) và nhiều tổ
chức quần chúng rộng rãi, làm việc tự nguyện, không hưởng lương và không nhận
kinh phí hoạt động từ nguồn ngân sách Nhà nước, do đó không có điều kiện công
chức hóa, quan liêu hoá.
- Cơ sở kinh tế chủ yếu của hệ thống chính
trị dân chủ nhân dân là nền sản xuất tư nhân hàng hoá nhỏ, phân tán, tự cấp, tự
túc; bị kinh tế thực dân và chiến tranh kìm hãm, chưa có viện trợ. - Đã xuất
hiện (ở một mức độ nhất định) sự giám sát của xã hội dân sự đối với Nhà nước và
Đảng; sự phản biện giữa hai đảng khác (Đảng Dân chủ và Đảng xã hội) đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ đó đã giảm thiểu rõ rệt các tệ nạn thường thấy phát
sinh trong bộ máy công quyền.
Hệ thống chuyên chính vô sản (giai đoạn 1955 - 1975 và
1975 - 1985
- Ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ thực
hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt lịch sử này đã diễn
ra trên miền Bắc cách đây hơn năm mươi năm và từ sau ngày 30-4-1975 diễn ra
trong phạm vi cả nước.
- Từ tháng 4-1975, với thắng lợi hoàn toàn và
triệt để của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới, giai đoạn tiến hành các mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Do đó hệ
thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên
chính dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm
vi nửa nước (giai đoạn 1955-1975) sang hệ thống chuyên chính vô sản hoạt động
trong phạm vi cả nước.
- Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV của
Đảng nhận dịnh rằng, muốn đưa sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng, “điều kiện
quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính
vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động”.
a.Cơ sở hình thành hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta
Một là, lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ và về
chuyên chính vô sản.
C.Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ đến xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị,
nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: muốn chuyển từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội thì phải chịu đựng lâu dài nỗi đau đớn của thời kỳ sinh
đẻ, phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài. Bản chất của chuyên chính
vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới.
Chuyên chính vô sản là một tất yếu của thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa xã hội. Nhưng việc vận dụng tư
tưởng này cần xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia. Thí dụ,
sự vận dụng sáng tạo chuyên chính vô sản vào tình hình cụ thể nước ta đã được
thể hiện sinh động trong việc ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và hệ
thống chính trị Dân chủ nhân dân giai đoạn 1945 -1954.
Hai là, đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới.
Trong Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) về đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới ở nước ta, có đoạn viết: nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời hai cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.
Ngày 18-12-1980, Quốc hội khoá VI thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong đó khẳng định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản”.
Như vậy, về thực chất, kể từ Đại hội III của
Đảng (tháng 9-1960) cho đến khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ thống
chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo các yêu cầu, mục tiêu, nhiệm
vụ của chuyên chính vô sản và do vậy, tên gọi chính thức của hệ thống này được
xác định là hệ thống chuyên chính vô sản.
Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống chuyên chính vô sản ở
nước ta được hình thành từ năm 1930 và bắt rễ vững chắc trong lòng dân tộc và xã hội.
Điểm cốt lõi của cơ sở chính trị đó là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng. Mặc dù ở miền Bắc Đảng Cộng sản không phải là đảng chính trị độc nhất mà
còn có Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, nhưng những đảng chính trị này thừa nhận vai
trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và là thành viên
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Bốn là, cơ sở kinh tế của hệ thống chuyên chính vô sản là
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là một nền kinh tế hướng tới mục tiêu xoá bỏ nhanh
chóng và hoàn toàn chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa là nguồn
gốc và cơ sở của chế độ người bóc lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức; sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể; loại bỏ triệt để cơ chế thị trường, thiết lập cơ chế quản lý kinh tế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Nhà nước trở thành một tổ chức kinh tế
bao trùm. Từ đó cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản
không thể không phản chiếu cả ưu điểm, lẫn hạn chế, sai lầm của mô hình kinh tế
này.
Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên chính vô sản là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp “ai thắng ai” trong
lĩnh vực chính trị, kinh tế và kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã tạo nên một kết cấu xã hội bao gồm
chủ yếu là hai giai cấp và một tầng lớp: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức. Tình hình này đã ảnh hưởng đến sự thực hiện chiến lược
đại đoàn kết dân tộc.
b. Chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản mang
đặc điểm Việt Nam
Trong giai đoạn này việc xây dựng hệ thống
chuyên chính vô sản được quan niệm là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội
chủ nghĩa; tức là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện
ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản
thân. Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản gồm những nội
dung sau đây:
Một là, xác định quyền làm chủ của nhân dân được thể chế
hoá bằng pháp luật và tổ chức.
Hai là, xác định Nhà nước trong thời kỳ quá độ là “Nhà
nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”, là một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực
hiện sự lanh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Muốn thế
Nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân, vì dân, đủ năng lực tiến
hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới
và con người mới.
Ba là, xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên
chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là đảm bảo cao nhất cho chế độ làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Bốn là, xác định nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể là đảm bảo cho quần chúng tham gia
và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã
hội. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp của quần
chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã hội
chủ nghĩa cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn thể phải đổi mới hình thức tổ
chức, nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với điều kiện mới. Hoạt
động của các đoàn thể phải năng động, nhạy bén với những vấn đề mới nảy sinh
trong cuộc sống, khắc phục bệnh quan liêu, giản đơn và khô cứng trong tổ chức
và trong sinh hoạt. Mở rộng các hình thức tổ chức theo nghề nghiệp, theo nhu
cầu đời sống và nhu cầu sinh hoạt văn hoá để thu hút đông đảo quần chúng vào
các hoạt động xã hội, chính trị.
Năm là, xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý là cơ chế chung
trong quản lý toàn bộ xã hội.
1.Đánh giá sự thực hiện đường lối
Hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản
giai đoạn 1975-1986 được chỉ đạo bởi các đường lối của các Đại hội IV và V của
Đảng đã góp phần mang lại những thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong 10 năm
(1975-1986) đầy khó khăn, thử thách. Điểm tìm tòi sáng tạo trong giai đoạn này
của Đảng là đã coi làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của hệ thống
chuyên chính vô sản ở nước ta, đã xây dựng mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân
làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong hoạt động của hệ thống chính
trị ở tất cả các cấp, các địa phương.
Trong hệ thống chuyên chính vô sản giai đoạn
này, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được xác
định thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa
làm tốt chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm, pháp chế xã hội
chủ nghĩa còn nhiều thiếu sót.
Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu quả mà
cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp là nguyên nhân trực tiếp; các cơ
quan dân cử các cấp được lựa chọn, bầu cử và hoạt động một cách high thức chủ
nghĩa. Không ít cơ quan chính quyền không tôn trọng ý kiến của nhân dân, không
làm công tác vận động quần chúng, chỉ quen dùng các biện pháp mệnh lệnh hành
chính.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những
nhiệm vụ của giai đoạn mới, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề
kinh tế -xã hội cơ bản và cấp bách. Nguồn gốc sâu xa là coi nhẹ công tác xây
dựng Đảng. Có tình trạng tập trung quan liêu, gia trưởng, độc đoán trong phương
thức lãnh đạo của Đảng. Trong 10 năm (1976 - 1986) trên 19 vạn đảng viên bị đưa
ra khỏi Đảng, có những người bị truy tố trước pháp luật. Trong số đó một phần
khá lớn là những đảng viên phạm sai lầm về phẩm chất đạo đức.
Đảng chưa phát huy tốt vai trò và chức năng
của các đoàn thể trong việc giáo dục, động viên quần chúng tham gia quản lý
kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng
với tính chất của tổ chức quần chúng.
Nguyên nhân chủ quan:
- Duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập
trung quan liêu, bao cấp.
- Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hện
bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới so với những đột phá trong cơ chế kinh tế đang
diễn ra ở các địa phương, các cơ sở trong toàn quốc. Do đó đã cản trở quá trình
đổi mới cơ chế kinh tế.
- Bệnh chủ quan, duy ý chí; tư tưởng tiểu tư
sản vừa “tả” khuynh, vừa hữu khuynh trong vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những hạn chế, sai lầm trên đây cùng những
yêu cầu của công cuộc đổi mới, đã thúc đẩy chúng ta phải đổi mới hệ thống
chuyên chính vô sản thành hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.
Câu 15: ĐCSVN xây dựng hệ thống
chính trị thời kỳ đỏi mới
Câu hỏi: Trình bày mục tiêu, quan điểm xây dựng
hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới của Đảng. Kết quả, ý nghĩa, hạn
chế và nguyên nhân
- Đáp án:
* Mục tiêu
- Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống
chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dan,Toàn bộ tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta trong
giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo
quyền lục thuộc về nhân dân.
*
Quan điểm
- Một là kết hợp chặt cẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị,lấy đổi mới kinh tế làm trong tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị
- Hai là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động
của HTCT khong phải là hạ thấp hoặc là thay đổi bản chất của nó mà là nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
- Ba là đổi mới HTCT một cách toàn diện,
đồng bộ và có kế hoạch có bước đi,hình thức và có cách làm phù hợp.
- Bốn là đổi mới mối quan hệ giữa các
bộ phận cấu thành của HTCT XHCN với nhau và với XH, tạo ra sự vận động cùng chiều
theo hướng tác động, thúc đẩy XH phát triển, phát huy quyền làm củ của nhân
dân.
* Kết quả và ý nghĩa
- Trong giai đoạn này Đảng đã coi làm
chủ tập thể XHCN là bản chất của HTCT, đã xây dựng mối quan hệ Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ thành cơ chế chung trong hoạt động của HTCT ở tất cảc cấp các địa phương
* Hạn chế và nguyên nhân
+ Hạn chế
- Trong hệ thống chuyên chính vô sản
giai đoậnnỳ, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, nhân dân ở từng cấp, từng địa
phương chưa được xác định rõ
- Bộ máy nhà nước cồng kềnh và kém hiệu
quả
- Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ cảu giai đoạn mới,
chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội.
- Đảng chưa phát huy được vai trò, chức năng của các đoàn thể trong việc
giáo dục động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội.
+ Nguyên nhân
- Duy trì quá lâi cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp.
- Hệ thống chuyên chính vô sản có biểu hiện bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới.
- Bệnh chủ quan, duy ý chí , tư
tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh, vừa hữu khuynh trong vai trò lãnh đạo của Đảng
Caau 16: van hoa thoi truoc doi moi
Anh (chị) cho biết quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng Văn hóa
thời kỳ trước đổi mới ?
a, Quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hoá thời kì trước đổi mới:
- Trong những năm 1943-1954:
+ Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La đã thông
qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam (đ/c Trường Chinh trực tiếp dự thảo) với 3
nguyên tắc của nền văn hóa mới: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và
thuộc địa), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa
phản lại hoặc xa rời quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm
cho văn hóa phản tiến bộ, trái khoa học)
=> Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản tuyên ngôn, cương lĩnh của
Đảng về văn hóa trước Cách mạng tháng Tám 1945.
+ Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa:
chống nạn mù chữ và giáo dục lại tinh thần nhân dân.
+ Vận động thực hiện Đời sống mới.
- Trong những năm 1955-1986:
+ Đại hội lần thứ III của Đảng (1960): điểm cốt lõi xây dựng và phát triển văn
hóa là chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với
cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học kỹ thuật, nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa để xây dựng chủ nghĩa xă hội.
+ Đại hội IV và Đại hội V xác định nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung
xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân.
b) Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
- Kết quả và ý nghĩa:
+ Nền văn hóa dân chủ mới – văn hóa cứu quốc đã bước đầu được hình thành
+ Xóa bỏ dần những mặc lạc hậu, những cái lỗi thời trong di sản văn hóa phong
kiến, trong nền văn hóa nô dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn
hóa dân chủ mới với tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
+ Nhiều triệu đồng bào mù chữ đã biết đọc biết viết.
+ Phát triển hệ thống giáo dục, cải cách phương pháp dạy học, thực hành rộng
rãi đời sống mới, bài trừ hủ tục.
+ Văn hóa cứu quốc đã động viên nhân dân tham gia tích cực vào cuộc kháng
chiến.
- Hạn chế và nguyên nhân:
+ Việc xây dựng thể chế văn hóa còn chậm.
+ Sự suy thoái về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển.
+ Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập.
+ Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng
chiến vĩ đại của dân tộc.
+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp, tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo
dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
Câu 17: Quan điểm cảu DCSVN
về văn hóa trong ĐH 8
Câu hỏi:Trình bày Quan điểm chỉ đạo về
xây dựng và phát triển nền văn hóa của Đảng thời kỳ đổi mới.
Kết quả, ý nghĩa, hạn chế, nguyên nhân.
- Đáp án:
* Quan điểm chỉ đạo về
xây dựng và phát triển nền văn hóa
- Một là văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội.
- Hai là nền văn hóa mà ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Ba là nền văn hóa Việt Nam
là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
- Bốn là xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng
+ Để xây dựng đội ngũ tri thức Đảng ta đã khẳng định : Giáo dục và đào tạo,
cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
- Năm là văn hóa là một mặt trận;
xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi ý
chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
* Kết quả và ý nghĩa
Trong những năm qua cơ sở vật chất, kỹ
thuật của nền văn hóa mới đã bước đầu được tạo dựng; quá trình đổi mới tư duy về
văn hóa, về xây dựng con người và nguồn lực cso bước phát triển rõ rệt; môi trường
văn hóa có những chuyển biến theo hướng tích cực; hợp tác quốc tế về văn hóa được
mở rộng.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển
mới. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng ở tất cả các cấp, các bậc học. Chất lượng
đội ngũ giáo viên phổ thông có những chuyển biến, cơ sở vật chất kỹ thuật cho
trường học trên cả nước được tăng cường đáng kể. Dân trí tiếp tục được nâng
cao.
Khoa học và công nghệ có bước phát triển,
phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa phát triển, việc xây dựng đời
sống văn hóa và nếp sống văn hóa có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thàng trong cả
nước.
*
Hạn chế và nguyên nhân
+ Một là đạo đức, lối sống tiếp tục diễn
biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của
Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
+ Hai là sự phát triển của văn hóa
chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Nhiệm vụ xây dựng con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rỗ
rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của
các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng...
sản phẩm văn hóa và các dịch vụ văn hóa ngày càng phong phú nhưng còn rất thiếu
những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tương và nghệ thuật, có
ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống.
+ Ba là việc xây dựng thể chế văn hóa còn chạm, chưa đổi mới, thiếu đồng bộ, làm
hạn chế tác dụng văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của đời sống đất nước.
+ Bốn là tình trạng nghèo nàn, thiếu
thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng
trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng
thụ văn hóa giữa các vùng mìên, khu vực, tầng lớp xã hôi tiếp tục mở rộng.
Những khuyết điểm yếu kém nói trên do
nguyên nhân khách quan và chủ quan, song cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan
là:
+ Các quan điểm chỉ đạo phát triển văn
hóa chưa được quán triệt thực hiện nghiêm túc.
+ Bệnh chủ quan duy ý chí trong quản
lý kinh tế -xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu cực đến việc triển khai đường
lói phát triển văn hoá.
+ Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách
và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
+ Một bộ phận những người họat động
trên lĩnh vực văn hóa có biểu hiên xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa thực dụng,
thị hiếu thấp kém.
Câu 18:quá trình đổi mới nhận thức chủ trương và quan điệm giai quyê t
các van đề xh cau ĐCSVN thời ki đổi mới
Câu hỏi: Trình bày quan điểm, chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
của Đảng thời kỳ đổi mới.. Kết quả, ý nghĩa.
- Đáp án:
* Quan điểm về giải quyết
các vấn đề xã hội
- Một là kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
- Hai là xây dựng và hoàn thiện thể chế
gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chính sách
phát triển
- Ba là chính sách xã hội được thực hiện
trên cơ sở phát triển kinh tế gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống
hiến và hưởng thụ
- Bốn là coi trọng chỉ tiêu GDP bình
quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người (HDI) và chỉ tiêu phát triển
các lĩnh vực xã hội
*
Chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội
-Mọt là khuyến khích mọi người dân làm
giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
- Hai là bảo đảm cung ứng dịch vụ công
thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân, tạo việc làm và thu nhập, chăm sóc sức
khỏe…
- Ba là phát triển hệ thống y tế công
bằng và hiệu quả
- Bốn
là xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe và cải thiện giống nòi
- Năm là thực hiện tốt các chính sách
dân số và kế hoạch hóa gia đình
- Sáu là chú trọng các chính sách ưu
đãi xã hội
- Bảy là đổi mới cơ chế quản lý và
phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng
*
Kết quả và ý nghĩa
Sau 20 năm đổi mới chính sách xã hội,
nhận thức về vấn đề phát triển xã hội của Đảng và nhân dân ta đã có những thay
đổi có ý nghĩa bước ngoặt quan trọng sau:
-
Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào nhà nước và tập thể, trông chờ viện trợ đã
chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng
lớp dân cư.
- Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích tập thể
một cách chung chung, trìu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên
danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân- cào bằng đã từng bước chuyển sang thực
hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ
hơn.
- Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng
của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính sách kinh tế đã đi
đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển
kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, đồng thời thực hiện
tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển.
- Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ
trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế,
chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc
làm.
- Từ chỗ không chấp nhận có sự phân
hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân cư giàu trước là cần
thiết cho sự phát triển.
-
Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội " thuần nhất" chỉ
còn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đi đến
quan niệm cần thiết xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp,
các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ,
góp phần xây dựng nước Vệt Nam giàu mạnh.
Câu 19: hoàn cảnh lịch sử, nội dung đường lối đối ngoại thời kỳ trước đổi
mới
Câu
19: Hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của đường lối đối ngoại của Đảng
thời kì trước đổi mới.
1.
Hoàn cảnh lịch sử
a.
Tình hình thế giới
- Từ
thập kỷ 70 của thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cách mạng khoa học và công
nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh. Nhật Bản và Tây
Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua
phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa hoãn giữa các nước lớn.
- Với
thắng lợi của cách mạng Việt Nam năm 1975 và các nước Đông Dương, hệ thống xã
hội chủ nghĩa lớn mạnh không ngừng, phong trào độc lập dân tộc và phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, từ giữa
thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ
nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.
- Tình
hình khu vực Đông Nam Á có những chuyển biến mới: Sau năm 1975, Mỹ rút khỏi
Đông Nam Á; khối quân sự SEATO tan rã; tháng 02 năm 1976, các nước ASEAN ký
Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali) mở ra cục diện hòa
bình, hợp tác trong khu vực.
b.
Tình hình trong nước
Thuận
lợi
- Cả
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng
lợi vĩ đại.
- Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được một số thành tựu quan trọng.
Khó
khăn
- Vừa
phải khắc phục hậu quả của chiến tranh, vừa phải đối phó với chiến tranh biên
giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
- Các
thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn nham hiểm chống phá cách mạng
Việt Nam. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần V nhận định: “Nước
ta đang ở trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với kiểu chiến
tranh phá hoại nhiều mặt”.
- Tư
tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời
gian ngắn đã dẫn đến những khó khăn về kinh tế - xã hội.
2. Nội
dung đường lối đối ngoại của Đảng
Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần IV
- Xác
định nhiệm vụ đối ngoại: “Ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để
nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
- Trong quan hệ với các nước: củng cố và tăng cường
tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia;
sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong
khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các
nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
- Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh một số chủ trương,
chính sách đối ngoại như: củng cố, tăng cường hợp tác mọi mặt với Liên Xô, coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại; nhấn mạnh yêu
cầu bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang
diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình,
tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại.
Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần V
- Xác
định: Công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong
đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan
chống phá cách mạng nước ta.
- Về
quan hệ với các nước: Đảng ta nhấn mạnh: đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên
Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của 3
dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và
thương lượng để giải quyết các trở ngại nhằm xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hòa bình và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc
trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập và mở
rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, về kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ
thuật với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Như vậy, ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Việt Nam
giai đoạn 1975 - 1986 là xây dựng quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với Lào và
Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước
đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch.
3. Kết
quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
a. Kết
quả và ý nghĩa
Kết
quả
- Quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa được
tăng cường, đặc biệt là với Liên Xô. Ngày 29/6/1978, Việt Nam gia
nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (khối SEV). Viện trợ hàng năm và kim ngạch buôn
bán giữa Việt Namvới Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong khối
SEV đều tăng. Ngày 31/11/1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác toàn diện với Liên Xô.
- Từ
năm 1975 đến 1977, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước; ngày
15/9/1976, Việt Nam tiếp nhận ghế thành viên chính thức Quỹ Tiền tệ quốc tế
(IMF); ngày 21/9/1976, tiếp nhận ghế thành viên chính thức Ngân hàng thế giới
(WB); ngày 23/9/1976, gia nhập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); ngày
20/9/1977, tiếp nhận ghế thành viên tại Liên hợp quốc; tham gia tích cực các
hoạt động trong phong trào không liên kết,…Từ năm 1977, một số nước tư bản mở
quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam.
- Cuối
năm 1976, Philippin và Thái Lan là nước cuối cùng trong tổ chức ASEAN thiết lập
quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Ý
nghĩa
Kết
quả đối ngoại đạt được có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng
Việt Nam:
- Đã tranh thủ được nguồn viện trợ đáng kể, góp phần khôi
phục đất nước sau chiến tranh.
- Việc
Việt Nam trở thành thành viên của các tổ chức đã tranh thủ được sự
ủng hộ, hợp tác của các nước, các tổ chức quốc tế; đồng thời, phát huy được vai
trò của nước ta trên trường quốc tế.
- Việc
thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN đã tạo thuận lợi để triển khai
các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành
khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Hạn
chế và nguyên nhân
Hạn
chế
Quan
hệ quốc tế gặp khó khăn, trở ngại lớn. Nước ta bị bao vây, cô lập, trong đó đặc
biệt là từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, lấy cớ sự kiện Campuchia, các nước
ASEAN và một số nước khác thực hiện bao vây, cấm vận Việt Nam.
Nguyên
nhân
- Ta
chưa nắm bắt được xu thế chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn và chạy đua kinh tế
trên thế giới; do đó, đã không tranh thủ được các nhân tố thuận lợi trong quan
hệ quốc tế phục vụ cho công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến
tranh; không kịp thời đổi mới quan hệ đối ngoại cho phù hợp với tình hình.
-
Nguyên nhân cơ bản là do chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan.
Câu 20: Quá trình hình thành , nội dunng và ý
nghĩa của đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta thời kì đổi
mới (1986 đến nay).
1, Các
giai đoạn hình thành, phát triển đường lối
Giai
đoạn 1986 - 1996: Xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
- Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VI nhận định: “Xu thế mở rộng phân công,
hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau,
cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nước ta”.
Từ đó,
Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước
ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ
chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
+
Tháng 12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tạo
cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
+
Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất
của Đảng, của nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức
xây dựng và phát triển kinh tế. Bộ Chính trị chủ trương kiên quyết chủ động
chuyển từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa
bình; mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị đánh dấu sự đổi mới tư duy quan hệ quốc tế và
chuyển hướng toàn bộ chiến lược đối ngoại của Đảng ta. Sự chuyển hướng này đặt
nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ quốc tế.
+ Từ
năm 1989, Đảng chủ trương xóa bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh
doanh xuất nhập khẩu. Chủ trương trên được xem là bước đổi mới đầu tiên trên
lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
- Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VII chủ trương: “Hợp tác bình đẳng và cùng
có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”.
Đại
hội VII đã đổi mới chính sách đối ngoại với các đối tác cụ thể. Với Lào và
Campuchia, thực hiện đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả trên tinh
thần bình đẳng. Với Trung Quốc, Đảng chủ trương thúc đẩy bình thường hóa quan
hệ, từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung. Trong quan hệ với khu vực, chủ
trương phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và châu Á - Thái
Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Đối với
Hoa Kỳ, Đại hội nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ
Việt Nam - Hoa Kỳ.
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội xác định mối quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
+ Hội
nghị Trung ương 3 khóa VII (6/1992) nhấn mạnh yêu cầu đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa để tiếp thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản
lý, tiếp cận thị trường thế giới trên cơ sở đảm bảo an ninh quốc gia, bảo vệ
tài nguyên, môi trường, hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực phát sinh
trong quá trình mở cửa.
+ Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01/1994) chủ trương triển khai
mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và
đa phương hóa quan hệ đối ngoại, trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo là: giữ vững nguyên
tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời, phải sáng tạo, năng
động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam
cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng
đối tượng.
Như vậy,
quan điểm, chủ trương đối ngoại rộng mở được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI,
sau đó được các Nghị quyết Trung ương khóa VI, VII phát triển đã hình thành
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan
hệ quốc tế.
Giai đoạn
1996 - 2008: Bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo
phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần VIII khẳng định: tiếp
tục mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh
tế, chính trị khu vực và quốc tế; đồng thời, chủ trương xây dựng nền kinh tế mở
và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
So
với Đại hội VII, chủ trương đối ngoại của Đại hội VIII có 3 điểm mới. Một
là, chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng
khác; hai là, quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân
dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ; ba là, lần đầu tiên
trên lĩnh vực đối ngoại Đảng đưa ra chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện
đầu tư ra nước ngoài.
Hội
nghị 4 khóa VIII (12/1997) chỉ rõ: trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, Nghị quyết đề ra chủ
trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với
Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
- Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần IX: chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Lần đầu tiên Đảng nêu rõ
quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm
lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,
kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Đại
hội IX phát triển phương châm của Đại hội VII: từ phương châm: “Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển” thành phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”.
+ Nghị quyết 7 của Bộ Chính trị (11/2001) về hội nhập
kinh tế quốc tế đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Hội nghị 9 khóa IX (01/2004) nhấn mạnh yêu cầu
chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập tổ chức WTO; kiên quyết
đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần X nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời, đề ra chủ
trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích lựa chọn
phương thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn
khi hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương
đến địa phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền
kinh tế; tích cực nhưng phải thận trọng, vững chắc.
Chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng,
Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn
xã hội.
Như
vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa
quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới. Đến Đại
hội X được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế.
2. Nội
dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
a. Mục
tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
- Cơ
hội và thách thức
+ Cơ
hội:
Xu thế
hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo thuận lợi cho
nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc
tế, tạo tiền đề mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
+
Thách thức
Những vấn đề toàn cầu như phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc
gia,…gây tác hại bất lợi đối với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả 3
cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia; những biến động trên thị trường quốc
tế tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây
rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Lợi dụng toàn cầu hóa, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau (cơ
hội không tự phát huy mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt
cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức. Ngược lại, nếu không tận
dụng hoặc bỏ lỡ cơ hội thì thách thức sẽ tăng lên, cản trở sự phát triển).
- Mục
tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Lấy
việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ
quốc. Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với ngoại lực tạo
thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Tư
tưởng chỉ đạo
+ Bảo
đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, thực hiện nghĩa vụ quốc tế
theo khả năng của Việt Nam.
+ Giữ
vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại.
+ Nắm
vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Mở
rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính
trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác trong khu vực; chủ động tham
gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
+ Kết
hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội
nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
+ Giữ
vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo
vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Phát
huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên
ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các
lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập.
+ Đẩy
nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ
trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.
+ Giữ
vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Một
số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế
-
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
-
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
-
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của tổ chức WTO.
-
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước.
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
-
Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập.
- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới
an sinh xã hội như: giáo dục, bảo hiểm y tế, đẩy mạnh công tác xóa đói giảm
nghèo, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi trường,...
-
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập.
-
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
-
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các
hoạt động đối ngoại.
3, Ý
nghĩa
Những
kết quả trên rất quan trọng: đã tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài kết hợp
với các nguồn lực trong nước hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến
những thành tựu kinh tế to lớn. Góp phần giữ vững và củng cố độc lập, tự chủ,
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh quốc gia và bản sắc văn hóa dân
tộc; nâng cao vị thế và phát huy vai trò nước ta trên trường quốc tế.
* Hạn
chế và nguyên nhân
-
Trong quan hệ với các nước, nhất là nước lớn, chúng ta còn lúng túng và bị
động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các
nước.
- Một
số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ
đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không
đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế
quốc tế.
- Chưa
hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và
một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết.
-
Doanh nghiệp nước ta hầu hết qui mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ;
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu
hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát
triển và có chi phí cao hơn các nước trong khu vực.
- Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp
ứng nhu cầu cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về
luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế từ năm 1986 đến năm 2008 mặc dù còn những hạn chế, nhưng thành tựu là
cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của
cách mạng Việt Nam được nâng cao trên thương trường và chính trường quốc tế.
Các thành tựu đối ngoại trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn
và sáng tạo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét