Văn học trung đại
Câu 1: nêu khái niệm vh trung đại vn?cho biet vh trung dại và vh hiện đại
khác nhau ở điểm nao?
a.
Khái
niệm
b.
Vh
trung đại khác với vh hiện đại
Giống nhau:
nội dung: cùng thể hiện tình
cảm tư tưởng của tác giả thông qua ngòi bút. Tp là tiếng nói tư tưởng, là đứa
con tinh thần của tg cho nên nó luôn chứa đụng tình cảm và tt của tg.
Bao gồm 3 nội dung chính: nhân đạo,
hiện thực, yêu nước
Như tp “ văn tế nghĩa sĩ cần giuộc”
cuaer Nguyễn Đình Chiểu và tp rừng xà nu cuả Nguyễn Trung Thành, cả 2 tp ở những
gd khác nhau nhưng điều thể hiện tinh thần yêu nước, hiện thưc cuộc sống và một
tình thần nhân đạo sâu sắc của nhân dân ta.
Đều gắn chặt với lịch sử
Đều phản ánh mọi sinh hoạt, tâm
lý của dân tộc
Câu 4: cho biết vai trò và y nghĩa cua chức năng chữ Nôm trong lich sử
vh dân tộc
Chữ Nôm cũng góp phần tạo nên một giá trị văn hoá cho sự hình thành một loại văn tự cho
đất nước, chữ Nôm chính là laoij hình văn tự đàu tiên do cha ông chúng ta tạo
ra trên cơ sở của chữ Hán, đó là một thành tựu to lớn đối với nền văn hoá dân tộc.
A.
Vai
trò
Chữ Nôm ra đời đã tạo điều kiện cho nền v
hoá của dân tộc và tiếng việt hình thành và phát triển.
Chữ Nôm dùng làm phương tiện cơ bản trong các sáng tác văn học.
Đỉnh cao của văn học là truyện Kiều
cuả Nguyễn Du , chinh phụ ngâm khúc của
Đoàn Thị Diểm đều đã viết bằng chữ Nôm. Có nhiều tác phẩm có giá trị cho đến
ngày nay.
Chữ Nôm dùng để ghi chép văn hoá dân gian.
Kho tàng vh gd đã có phương tiện
hưu hiệu để ghi lại thành văn bản và khắc ván lưu truyền ca dao tục ngữ. ....
Chữ Nôm làm phương tiện và phổ biến văn hoá Trung Hoa và tôn giáo.
Chính quyền vua Quang Trung dùng
chữ Nôm làm văn tự chính thức trong việc hành chính.
Chữ Nôm đóng góp rất lớn trong
những bước đầu phổ cập của các tín ngưỡng, tôn giáo ở VN.
Các kinh sách truyện đạo Nho, đạo Phật, Ki tô Giáo đều
đã được biên soạn và viết trong chữ Nôm để phổ cập trong dân chúng.
Toà thánh Vatian hiện nay dang
còn lưu giữ nhiều văn bản bằng chữ Nôm là bản dịch của Kinh Thánh.
Nhờ chữ Nôm mà lịch sử đã khắc ghi biết bao anh hùng cứu nước, tìm ra
được một số tài liệu đánh giặc giữ nước.
B.
Ý
nghĩa
Sự ra đòi chữ Nôm có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, đánh giá bước đầu trong sự phát triển văn hoá dân tộc. Ý thức tự cường và khẳng định vai trò của tiếng
việt.
Với sự ra đời của văn học chữ Nôm
đã xuất hiện nhiều laoij văn học mới, như:
ca trù, diễn ca, truyện thơ lục bát, song thất lục bát... đã tạo điều kiện
hoàn thiện hệ thống thể loại vh Việt Nam thời trung đại.
Văn học chữ nôm phản ánh tư tưởng
tình cảm, những bất công trong xh phong kiến, vạch trần tội tham nhũng của vua
quan, ca ngợi cuộc đáu tranh áp bưc của nhân dân. Bênh vự quyền sống của người
phụ nữ. Phản ánh sâu sắc xh đương thời cùng những thay đổi trong tâm tư, tình cảm
và nguyện vọng của con người VN.
Góp phần làm cho nền văn hoá dân
tộc phong phú và đa dạng hơn..
Ngày naychuwx Nom ko còn đuọcr sử
dụng nữa, nhưng vị trí của nó trong việc sáng tạo ra một văn tự đầu tiên vân
xconf nguyên giá trị trong thời đại chung ta. Những tinh hoa được chắt lọc từ
chữ Nôm vẫn còn vốn quý giá cho dân tộc.
Câu 3: vai trò và ý nghĩa chữ Hán trong lịch sử dân tộc?
Chữ Hán là của Trung Hoa , chữ Hán đượ du nhập
vào Vn cùng với cuộc xâm lăng của nhà Hán đói với VN ở tk 1 sau công nguyên.
Con đường chữ Hán đến VN không
quang minh chính đại , nhưng thực tế chữ Hán đã trở thành văn tự từng có vai
trò tiên phong khai mở, phát triển văn hoá VN nói chung, văn học VN nói riêng.
Khi chua có chữ Nôm, chữ Hán đã
ghi lại lịch sử của dân tộc, dể lại cho con cháu biết bao nhiêu là tài liệu hơn
một ngàn năm.
Từ chữ Hán còn là tiền đề để sinh
ra chữ Nôm. Hay nói cách khác có chữ Hán mới có chữ Nôm.
Nhờ nền vh chữ Hán đã góp phần
làm cho nền văn học VN phong phú và đa dạng hơn.
Câu
5: Các giai đoạn phát triển của Văn học Trung đại Việt Nam
I: Các giai đoạn phát
triển:
1. Chặng
1: (TK X – hết TK XIV)
Lực
lượng sáng tác: thiền sư và vau quan nhà
Ly
Năm 938, Ngô Quyền
đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc:
đất nước độc lập, chấm dứt hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc, nhà nước phong
kiến Việt Nam hình thành và phát triển. Từ đây bắt đầu một giai đoạn hào hùng
với những chiến công vô cùng hiển hách của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lí,
Trần.
Văn học viết Việt Nam hình thành, TK X
có sự xuất hiện của văn học viết chữ Hán và đến TK XIII đấnh dấu sự ra đời của
văn học viết bằng chữ Nôm. Bên cạnh đó văn học dân gian vẫn tồn tại và phát
triển song song với văn học viết. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng yêu nước với âm
hưởng hào hùng, đặc biệt là giai đoạn nhà Trần với hào khí Đông A sục sôi.
Các tác phẩm tiêu biểu: Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn), Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận),
Nam quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) Tụng giá hoàn
kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Bạnh Đằng giang kí
(Trương Hán Siêu)
Thời kì này có sự xuất hiện của nhiều thể loại văn học như văn nghị luận
(chiếu, hịch), văn xuôi lịch sử (Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu) và thơ. Do tư
duy nguyên hợp nên văn học giai đoạn này có hiện tượng văn-sử-triết bất phân.
Văn học viết bằng chữ Hán là chủ đạo, văn học viết bằng chữ Nôm chưa có thành
tựu gì nổi bật.
2. Chặng 2: (TK XV – hết TK XVII)
Triều Trần suy vong,
Hồ Quý Li tiếm ngôi nhà Trần mở ra triều đại nhà Hồ (1400-1407). Triều Minh lấy
có phò Trần diệt Hồ sang xâm lược nước ta. Lê Lợi sau đó dấy binh khởi nghĩa và
khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-1427). Lê Lợi lên ngôi mở ra triều
đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh
vào TK XV. Tuy nhiên bên trong cung đình nhà Hậu Lê không tránh khỏi xung đột.
Đặc biệt là sau cái chết của Lê Thánh Tông, quan lại nhiều lần chia bè phái
đánh nhau. Mạc Đăng Dung do có công dẹp loạn mà có nhiều quyền bính trong tay,
thậm chí lấn át cả vua. Đến năm 1527 thì Mạc Đăng Dung phế truất ngôi vua và
lập ra nhà Mạc. Từ đây lịch sử Việt Nam bước vào thời kì đen tối nhất: thời kì
nội chiến. Cuộc chiến Lê Mạc, Trịnh Nguyễn phần nào cũng cản trở quá trình phát
triển của đất nước.
TK XV văn học viết còn kế thừa được cảm
hứng yêu nước và âm hưởng còn sót lại của hào khí Đông A. Dần dần văn học Việt
Nam chuyển sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các
tệ nạn xã hội, sự suy thoái về mặt đạo đức. Văn học viết bằng chữ Hán và văn
học viết bằng chữ Nôm đều đạt được nhiều thành tựu. Các tác phẩm chính: Bình
Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), thơ Lê Thánh Tông, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyền kì
mạn lục (Nguyễn Dữ).
Thời kì này có nhiều thể loại được bổ sung. Hiện tượng văn-sử-triết bất phân
nhạt dần bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều các tác phẩm giàu chất văn chương,
hình tượng. Thơ Nôm có nhiều thành tựu lớn qua sáng tác của Nguyễn Trãi. Bên
cạnh đó là sự xuất hiện của văn xuôi tự sự (Truyền kì mạn lục). Và văn chính
luận có sự phát triển tột bậc qua những sáng tác của Nguyễn Trãi như Bình Ngô
đại cáo, Quân trung từ mệnh tập…
3. Chặng 3: (đầu TK XVIII – hết nửa đầu
TK XIX)
Chế độ phong kiến Việt
Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, đấu
đá, tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghia Tây Sơn diệt Trịnh
Nguyễn, đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Vua Quang Trung
lên ngôi. Nguyễn Ánh không thể chống lại vua Quang Trung với hạm đội manh nhất
Thái Bình Dương bèn cầu cứu thực dân Pháp. Cuối cùng Nguyễn Ánh có được sự trợ
giúp của thực dân Pháp, đổi lại sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh phải để chúng buôn
bán tự do tại của biển Sơn Trà, Đà Nẵng. Không lâu sau khi thành lập, triều đại
Tây Sơn bị lật đổ, Nguyễn Ánh khôi phục lại vương triều phong kiến chuyên chế
(1802-1945).
Đây được xem là giai đoạn phát triển tột bậc, rực rỡ nhất của văn học phong
kiến Việt Nam. Cảm hứng xuyên suốt thời kì này là cảm hứng nhân đạo. Bởi lúc
này số phận và quyền sống của con người bị đe dọa. Văn học giai đoạn này là
tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc, đấu tranh đòi giải phóng con người
cá nhân. Các tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn; Đoàn Thị Điểm
dịch), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia
văn phái), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thường kinh kí sự (Lê Hữu Trác),
thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,Truyện Kiều (Nguyễn Du). Thời kì này có
sự phát triển mạnh mẽ của những sáng tác văn học viết bằng chữ Nôm, và sự xuất
hiện của nhiều thể loại văn học như tùy bút, tiểu thuyết chương hồi, kí.
4. Chặng 4: (cuối TK XIX)
Sau một thời gian nắm
quyền, nhà Nguyễn dừng việc cho quân Pháp tự do buôn bán tại của biển Sơn Trà
và chém đầu tất cả những người truyền đạo thiên chúa giáo ở Việt Nam. Và đến
năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn chống cự yếu ớt
rồi nhanh chóng đầu hàng. Đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Từ chế độ phong
kiến, Việt Nam chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến và văn hóa phương Tây
bắt đầu ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam.
Cảm hứng xuyên suốt của văn học cuối TK XIX là cảm hứng yêu nước chống giặc
ngoại xâm và mang một âm hưởng bi tráng bởi nó ghi lại một thời khổ nhục nhưng
vĩ đại, thất bại nhưng vẫn hiên ngang của dân tộc Việt Nam. Các tác phẩm tiêu
biểu: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc… của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Quang Bích, Phan Văn Trị, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn
Thượng Hiền…Đặc biệt trong thời kì này có sự xuất hiện của một số tác phẩm văn
xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ của Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của đem đến những
đổi mới bước đầu theo hướng hiện đại hóa. Văn thơ chữ Hán và chữ Nôm của các
tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương đều có những bước phát triển
mạnh mẽ.
II: Đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam:
1. Nội dung:
Văn học trung đại còn
được gọi bằng những cái tên khác nhau như văn học thành văn, văn học phong
kiến, văn học cổ điển. Bởi từ TK X đến TK XIX, văn học trung đại phát triển
trong một môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng
tác chủ yếu là tầng lớp trí thức, những người có trình độ cao, được đào tạo từ
cửa Khổng sân Trình và những sánh tác chỉ lưu truyền trong tầng lớp công chúng
ấy, bên cạnh đó văn học thời kì này còn chịu ảnh hưởng bởi thi pháp văn chương
cổ điển. Văn học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ nhưng
không bao giờ tách rời khỏi cảm hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự.
Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng
yêu nước và văn học trung đại luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự
kiện trọng đại liên quan đến vận mệnh đất nước. Cảm hưng yêu nước luôn gắn liền
với tư tưởng trung quân như là một tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi
xã hội phong kiến quan niệm nước là vua, vua là nước. Do đó văn học có một quan
niệm: yêu nước là phải trung với vua và trung với vua là phải yêu nước (trung
quân ái quốc). Cảm hứng yêu nước được thể hiện phong phú, đa dạng qua mội thời
kì lịch sử, khi đất nước có giặc ngoại xâm (căm thù giặc ngoại xâm, xót xa
trước cảnh người bị đàn áp, ý chí tiêu diệt kẻ thù, sẵn sàng xả thân vì nước),
khi đất nước hòa bình (khát khao xây dựng Tổ quốc, yêu thiên nhiên, con người,
tự hào với truyền thống dân tộc), âm hưởng hào hùng, khi thì bi tráng, khi thì
trầm lắng, thiết tha.
Khi vận mệnh cá nhân con người, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị đe
dọa thì cảm hứng nhân đạo lại thăng hoa rực rỡ. Văn học trung đại Việt Nam luôn
gắn bó với số phận con người. Cảm hứng nhân đạo có hàm chứa cảm hứng yêu nước
bởi có những bài ca yêu nước thể hiện nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận con
người. Tư tưởng nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam là sự kế thừa của
truyền thống tư tưởng lớn của con người Việt Nam: thương người như thể thương
thân, lá lành đùm lá rách; tư tưởng của phật giáo: từ bi bác ái, yêu thương con
người rộng rãi; và tư tưởng của nho giáo: cái nhân cái nghĩa. ĐIều này được thể
hiện một cách đa dạng qua việc ca ngợi vẻ đẹp con người, đồng cảm với bi kịch
con người, đồng tình với ước mơ, khát vọng của con người, lên án các thế lực
bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong nội dung
của tác phẩm Truyện Kiều, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ nghĩa.
Các tác phẩm trong giai đoạn văn học này cũng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ
truyền thống của người Việt Nam. Người Việt Nam rất yêu thiên nhiên, yêu đời
sống vui vẻ, lạc quan, có nghị lực và sức mạnh vượt qua thử thách:
“Đừng than phận khó ai
ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”
Người Việt Nam còn có
ý thức không vượt ngưỡng. Họ yêu say đắm, mãnh liệt nhưng không đến mức phải
chết cho ái tình, yêu đến chết chỉ là sự ảnh hưởng của tư tưởng phương Tây. Và
đặc biệt họ thích cái đẹp tinh tế, xinh xắn nhỏ nhắn mà biểu hiện là người Việt
không hề có những tác phẩm hoành tráng như Ramayana của Ấn Độ, Chiến tranh và
hòa bình của Nga…
——————————————————————————–
2. Đặc điểm nghệ
thuật:
a, Tính quy phạm và
bất quy phạm:
Tính quy phạm là những
quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng
tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác. Biểu hiện ở nhiều đặc
điểm. Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức. Sáng tác có
lúc để tiêu khiển, thù tạc nhưng mục đích chung của các vị thánh hiền là giáo
hóa cuộc đời.Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn
đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Ngôn
ngữ sáng tác gồm chữ Hán và chữ Nôm nhưng chữ Hán được xem là chính thống.Tư
duy nghệ thuật thì luôn cho rằng cái đẹp thuộc vào những khuôn mẫu định sẵn
(xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc mai, long li quy phượng, ngư tiều canh mục).
Và thể loại chủ yếu là những thể loại văn học có kết cấu cố định, chặt chẽ về
số câu, số chữ, niêm luật, đối (ví dụ thơ Đường luật, cáo, phú, văn tế). Còn
hình ảnh trong thơ văn (văn liệu, thi liệu) là từ sử sách, rất lắm điển tích,
điển cố hay có trong văn học Trung Hoa.(chẳng hạn mùa thu về thể hiện qua hình
ảnh sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa).
Bất quy phạm có nghĩa là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ, những
quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Suốt 10 TK văn học trung đại cũng
đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và
hình thức thể hiện. Các tác giả đã có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm rất
thành công như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du,…Bên
cạnh đó còn đem vào trong sáng tác các thể thơ nội sinh như lục bát, hát nói,
có sử dụng một số thể thơ Đường nhưng có ý thức đổi mới chẳng hạn thơ thất ngôn
xen lục ngôn (Ao cạn vớt bèo cấy muống/Đìa thanh phát cỏ ương sen – Nguyễn
Trãi) Các tác giả cũng đã đưa vào trong thơ văn những hình ảnh dân dã, bình dị,
gắn liền với đời sống con người Việt Nam. Chẳng hạn rau muống, bèo, quả mít,
cái quạt, con ốc nhồi…
Văn chương Trung đại Việt Nam có tính quy phạm là do nước ta giáp với Trung
Quốc, một nền văn minh cổ của nhân loại. Hơn nữa Việt Nam còn phải chịu hơn
1000 năm phong kiến Bắc thuộc. Phong kiến phương Bắc luôn có ý đồng hóa dân tộc
Việt Nam nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố Hán và văn hóa Hán.
Và đến khi dân tộc ta giành được độc lập thì nước ta xây dựng nhà nước theo
hình thái xã hội phong kiến, một xã hội của chữ lễ mà có thể coi quy phạm là
một biểu hiện của chữ lễ đó. Tôn ti cao thấp là đặc trưng của xã hội phong kiến
nên văn chương cũng có loại cao loại thấp. Tính chất cao quý từ quan niệm nguồn
gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ văn xưa cũng đẻ ra tính quy phạm. Tuy
vậy nhưng chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa của văn học Trung Quốc nhưng
mặt khác lại cũng không ngừng phát triển văn học của đất nước mình theo xu
hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa. Do vậy người Việt Nam đã cố gắng phá vỡ tính
quy phạm.
b, Tính tranh nhã:
Văn học trung đại có
đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ
tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần, văn
học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình
dân, gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.
c, Yếu tố Hán, văn hóa
Hán:
Hơn 1000 năm phong
kiến Bắc thuộc, chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán là
không thể tránh khỏi. Trong rất nhiếu năm, văn tự của nước ta là chữ Hán và đến
tận khi chữ Nôm ra đời, văn tự Hán vẫn được coi là loại chữ chính thống trong
một thời gian dài. Thể loại chủ yếu là các thể loại của văn học Trung Quốc,
trong các tác phẩm có nhiều thi pháp cổ điển và hình ảnh trong văn học Trung
Quốc. Tuy nhiên văn học Việt Nam cũng có ý thức để phá bỏ sự ảnh hưởng này bằng
cách viết bằng chữ Nôm, sử dụng nhiều thể thơ dân tộc (như truyện thơ ngâm khúc
hát nói, lục bát, song thất lục bát) và đưa vào trong thơ văn các hình ảnh đậm
chất Việt
III: Hình ảnh con người trong văn học:
1. Mối quan hệ với
thiên nhiên:
Thiên nhiên là nguồn
cảm hứng bất tận của văn chương. Mây sớm, trăng khuya, núi non, cỏ cây hoa lá
đều in đậm dấu ấn của mình trong văn chương. Con người và thiên nhiên luôn có
mối quan hệ biện chứng, qua lại tác động lẫn nhau. Văn học phản ánh quá trình
nhận thức, cải tạo, chinh phục thiên nhiên của con người, bắt thiên nhiên quy
phục con người cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Với các tao nhân mặc
khách, thiên nhiên là người bạn tri âm. Không ít người đã lánh đời phàm tục,
hòa mình vào thiên nhiên, sống thanh đạm để chiêm nghiệm về vũ trụ, triết lí
nhân sinh. Thiên nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống
con người. Thiên nhiên là biểu hiện cho quê hương, đất nước. Hình ảnh thiên
nhiên đã đi vào trong thơ văn với những nét riêng của từng vùng miền làm nên
một bức tranh đa dạng về con người Việt Nam. Thiên nhiên còn là chuẩn mực của
cái đẹp, là thước đo mọi giá trị của tạo vật. Nên văn học cổ điển tả người cũng
phải so sánh với cái chuẩn mực là vũ trụ, thiên nhiên, đồng thời thiên nhiên
thường gắn với lí tưởng, đạo đức thẩm mỹ. Chẳng hạn nhân cách của người quân tử
xưa được ví như tùng, bách, vẻ đẹp của người giai nhân được ví với liễu mai.
Các tác phẩm từ buổi bình minh của lịch sử đã kể lại quá trình cha ông ta nhận
thức, cải tạo, chinh phục thế giới tự nhiên để xây dựng đất nước và tích lũy
nhiều hiểu biết về tự nhiên. Với con người Việt Nam, thiên nhiên là người bạn
thân thiết, tình yêu thiên nhiên là nội dung quan trọng của văn học. Trong văn
học trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn với đạo đức, lí tưởng, thẩm mĩ của
con người.
2. Mối quan hệ với
quốc gia dân tộc:
Cha mẹ cho ta cuộc
sống nhưng đất nước mới làm cho cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Mỗi người đều
được thừa hưởng tinh hoa về vật chất cũng như tinh thần mà cha ông ta để lại,
nên mỗi cá nhân đều có mối quan hệ với quốc gia, dân tộc. Văn học trung đại,
chủ nghĩa yêu nước thể hiện chủ yếu qua ý thức sâu sắc về quốc gia dân tộc,
truyền thống văn hiến lâu đời.
3. Con người trong mối
quan hệ xã hội:
Văn học Việt Nam là
dòng văn học đầy tính nhân văn bởi nó thể hiện mơ ước về cuộc sống công bằng,
nhân ái. Trong văn học trung đại có hình ảnh xã hộ Nghiêu, Thuấn . Trong xã hội
có các giai cấp đối kháng thì thi nhân đã lên tiếng tố cáo , phê phán các thế
lực chuyên quyền và bày tỏ sự cảm thông với những người dân bị áp bức. Văn học
trung đại miêu tả thực tế đen tối của xã hội, phơi bày những cảnh đời đau đau
khổ của nhân dân, đấu tranh cho quyền lợi của con người.
4. Con người và ý thức
về bản thân:
Văn học Việt Nam ghi
lại quá trình lựa chọn, đấu tranh để khẳng định một đạo lí làm người của dân
tộc. Đạo lí đó bao gồm nhiều phẩm chất tốt đẹp: lòng nhân ái, thủy chung, tình
nghĩa, vị tha, đức hi sinh chống lại cái chủ nghĩa khắc kỉ của tôn giáo, đấu
tranh cho quyền sống của con người nhưng không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực
đoan.
Trong những thời điểm lịch sử khác nhau thì con người có những biểu hiện khác
nhau trong ý thức về bản thân. Khi đất nước có chiến tranh hay những cuộc cải
tạo thiên nhiên thì con người thường đề cao ý thức cộng đồng hơn là ý thức cá
nhân. Họ hi sinh cái tôi cá nhân vì cộng đồng, vì Tổ quốc. Còn trong thời bình,
con người cá nhân được đề cao, họ có ý thức sâu sắc về quyền sống của cá nhân,
quyền được hưởng hạnh phúc, tình yêu
Thông tin rất bổ ích, tôi có một số thông tin liên quan hữu ích cho bạn dưới đây về thiết bị loa âm thanh. Với các mẫu âm loa kiểu dáng đa dạng, tính thẩm mỹ cao cùng tính năng vượt trội, giá thành phải chăng chắc chắn sẽ đem đến cho bạn sản phẩm có giá trị:
Trả lờiXóaloa toa
loa cầm tay toa
amply toa
loa nén toa
Thông tin bạn cung cấp rất hay, xem thêm 1 số tin tức liên quan nổi bật dưới đây:
Trả lờiXóagiấy dán kính nghệ thuật
thi công giấy dán tường hàn quốc
tranh dán tường 3d phòng khách
Thông tin bạn cung cấp rất hay, xem thêm 1 số tin tức liên quan nổi bật dưới đây:
Trả lờiXóagiấy dán kính 3d
decal dán tường giá rẻ
mẫu giấy dán tường phòng ngủ đẹp
Thông tin rất hay, xem thêm tin liên quan dưới đây:
Trả lờiXóaghế massage như nhân sâm mùa lạnh cho sức khỏe
ghế massage nâng cao cuộc sống hiện đại