Câu 1: tình hình văn học hiện thực phê phán (1930-1945)
Văn học hiện thực không chỉ đáp ứng những nhu yêu cầu của cuộc
đấu tranh xh trong một thời kỳ lich sử sôi động nà còn phản ánh quá trình vẫn động
của các hệ tư tưởng. Về văn hoá xh, xh thực dân nữa phong kiến bóc lột nhân dân đến cảnh khốn cùng. Bên cạnh
đó tư sản giàu có, xa hoa, truỵ lạc, một số bộ phân người dân bị tha hoá, bị đảy
đến đường cùng.
Các nhà văn hiện thực có ảnh hưởng rõ rệt cảu Phương tây
như: Vũ trong Phụng, Nam Cao, lối viết mới hơn so với nhà văn đi theo con đường
truyền thống quen thuộc như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố.
Những năm 30 của tk 20 là thời kỳ hình thành và phát triển mạnh
mẽ của vh hiện thực phê phán VN. Vh ht pp đã kế thừa và phát triển những truyền
thống vh hiện thực chữ nghĩa trong các thế kỷ trước, khắc phục những nhược điểm
tồn tại tròn thế khách quan và những phương pháp biểu hiện của các nhà văn quá
khứ. Nhìn chung có thể chia thành các nhóm nhỏ:
Gdd1: 1930- 1935
Gđ 2: 1936 – 1939
Gđ 3: 1940 – 1940
Gd 1930 -1935
Bước đầu khẳng định vị trí của vh ht trên văn đàn. Những tác
phẩm cảu Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang vẫn lần lượt khẳng
định vị trí của vh ht pp. Mở đầu cho trào lưu vh ht pp với thể loại truyện ngắn.
Nguyễn Công Hoan là tác giả tiêu biểu cho van học hien thực
phê phán ở thời kỳ đầu với những tp như: ngựa người người ngựa, kép tư bền.
Ngô Tất Tố thể hiện vh trên báo chí. Còn Tam Lang , Vũ Trọng
Phụng viết phóng sự trong vh hiện thực
phê phán, các tác phẩm như: Tôi kéo xe của Tam Lang, Dân biều dân biểu cau VTP.
...
Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã lật mặt trái của bịp bợm, ngu
dân cảu bọn thực dân, phong kiến.
Tuy nhiên vh ht pp thời kỳ này chỉ phản ánh được những nét cục
bộ, những hiện tượng nổi trên bề mặt của xhm, chưa nêu lên được bản chất . những
vấn đề lớn mang tầm quát cảu thời đại, chưa tập trung vào những mâu thuẫn chủ yếu
của xh. Một số tác giả còn giao động giũa chủ n ghĩa hiện thực với củ nghĩa
lãng mạn. Một só phóng sự chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nhĩa tự nhiên.
Giai đoạn1936 -1939
Bước sang thời kỳ mặt trận dân chủ, vhht phê phán phát triển
rực rõ hơn bao giờ hết. Có thể xem đây là thời kỳ thắng thế của cnht. Lực lượng
sáng tác ngày càng đong đảo hơn, ta có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn Đình lạp, bồi
huy phồn..
Trong thòi kỳ này, bên cạnh một khối lượng rất lớn phóng sự
và truyện ngắn là sự phát triển mạnh mẽ của tiển phẩm ngô tất tố, tam lang, một
vụ khs nhanh gọn và lợi hại, đáp ưng kịp thời những yêu cầu nóng vội của xã hội.
Tiểu thuyết đã đè cập đến những vấn đề chính trị xã hội quan
trọng, đã tố cáo mạnh liệt những thủ đoạn áp bức bóc lột, chính sách mỹ dân giả
dối
ddax nói lên nỗi thống khổ của công-nông và biểu dương tình
thần đấu tranh đòi cải thiện đời sông, đòi tự do dân chủ.
Tú Mỡ vết những bài thơ rào phúng có tính chất ngụ ngôn như
bài con bò, bài con chó chửi bọn tay sai bán nước. Vũ trọng phụng viết 3 cuốn
tiểu thuyết lớn như giông tố, số đỏ, vỡ đê. Nguyên hồng mới xuất hiện đã tỏ ra
sung sức với tiểu thuyết bí đỏ, những ngày thơ ấu, hàng loạt truyện ngắn đầy
tính chiến đấu đăng trên các báo chí của đảng.
Văn học hiện thực phê phán thời mặt trận dân chủ phát triển
độtbiến về cả số lượng và chất lượng do ảnh hưởng của phong trào cách mạng quần
chúng dưới sự lãnh đạo của đcsvn là nhân
tố quyết định chuyển biến của nền văn học.
giai đoạn 1940-1945
trong đại chiến thứ tg lần thứ 2, dưới ách cảu 2 tên Nhật,
Pháp, Dang r rút lui vào hoạt động bí mật, sách báo tiến bộ bij đóng của và tịch
thu. Vh ht pp len lỏi để tồn tại ssong với nhiều trào lưu vh khác.
Nam cao đã đưa vh ht lên đỉnh cao. Truyện của Nam cao hầu hết
là những tấm bi kịch cảu những người nông dân nghèo khổ. Trước những ngày đen tối
truocs cách mạng t8 ông đã sáng tác: Sống mòn, Dời Thừa, trăng sáng
Truyện Tô Hoài giúp ta tìm hiểu những con người với những
phong tục tập quán, sinh hoạt của một vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội. nhưng
đằng sau phục tục đó, T H đã phán ánh được một xh cùng quẫn nghèo khổ.
Vhht giai đoạn 40-45 đã có sự phân hoá truocs sự khủng bố cảu
địch, một số tg đã đi trệch hướng nhưng còn mọt số nhà văn ht đã tiếp thu được ảnh
huongr cảu đảng qua nhóm văn hoá cứu quốc bí mật như Nam Cao, Tô Hoiaf , Nguyễn
Hồng..... tuy ko bóc lột những mẫu thẫn của xh, nhưng cũng duy trì được một
thái độ dám nhìn vào sự thật, thấy được cái không khí oi bức cảu xh dang ngột
thở, đang quằn quại lột xác để chuyển mình.
Nhìn chung vh ht pp
VN là một hiển tượng không thuàn n hất, trong quá trình phát triển đôi khi nó bị
pha trộn bởi những khuynh hướng lãng mạn và tự nhiên chủ nghĩa.
Câu 2: tình hình văn học lãng mạn 1932-1945
Văn học giai
đoại 32-45 có 3 dòng phát triển song song và xen kẽ là văn học cách mạng, văn học
hiện thực và văn học phê phán. Trong đó, thơ mới và tự lực văn đoàn là hai vấ đề
nổi lên trong giai đoạn này.
Thơ mới
Năm 1942, thi nhân
Hoài Chân và Hoài Thanh ra đời. cuốn sách đã gốp phần tổng kết phong
trào thơ mới. quan niệm của tác giả thi nhân VN về cơ bản vẫn là nghệ thuật vì
nghệ thuật.
Quan niệm chung của các nhà thơ mới là quan niệm nghệ thuật
vì nghệ thuật. Những chuện đau khổ, thất nghiệp, biến cố chính trị ...không phải
là đè tài chính cảu họ. Cac nhà thơ mới thường chia thành 2 con người:
Con người hành động và con người văn chương. Con người hđ có
thể đấu tranh chính trị, còn con người văn chương thì vẫn ở trong tháp ngà nghệ
thuật .
Trong thơ mới cái tôi cá nhân luôn được đề cao. Đólà cái tôi
bản lĩnh và cái tôi cảu chính tác giả. Xuân Diệu phát biểu trên một tạp chí nước
ngoài răng: trong khoảng 10 truocs cm t8-19945, thơ tôi luôn nói về số phaannj
đau khổ của con người, khao khát cuộc sống tươi đẹp,. Nhiều độc giả dã thích thơ
tôi. Trong thơ tôi có những hình ảnh mới, có ươc vọng nguyện vong. Tất cả những
cái đó khác với thơ truyền thống.
Thơ mới vừa có tính tích cự vừa có tính tiêu cực của nó.
Thơ mới la tiếng nói đau khổ, ko chiu vui với xh ngang trái
vùi dập đương thời.
Trong thơ mới có cái buồn uỷ mĩ, bạc nhược, cái buồn bi quan
về cuộc sống nó làm bi luỵ và quẫn biết bao nhiêu là người.
Thơ mới chiu ảnh hưởng cảu thơ ca phương Tây và thơ ca
phương Đông.
Tự lực văn đoàn
Năm 1930 Nguyễn Tường Tam từ Pháp trở về nước với bằng cử
nhân khoa hocjvaf một quan niệm mới về xã hội và văn chương. Năm 1932, Nguyễn
TưỜNG Tam đã đứng ra làm chủ bút báo phong hoá và năm 1933 lập ra nhóm tự lực
văn đoàn gồm mấy anh em dọng họ Nguyễn Tường như Nguyễn Tường Tam( Nhất Linh),
Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), nguyễn tường lân(thạch lam), trần khánh dư(khải
hưng) và một số văn nghệ sỹ khác.
Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn gồm các diểm cơ bản sau:
Dùng lời văn giản dị, dễ hiệu, it Nho,một lối văn thật
Ca tụng cái hay cái đẹp của đất nước mà có tính cách bình,
ko có tính cách trưởng giả, quý phái.
Trong tư do cá nhân
Làm cho người ta biết đạo Khổng không còn hợp thời nữa
Đem phương pháp khoa
học Thái Tây áp dụng áp dụng cho văn học VN. Tự lực văn đoàn chủ trương thực hiện
một cách tân hoàn toàn trong văn chương, một mặt là dáu tranh cho sự giải phóng
cá nhân là cơ sở xh, một mặt đấu tranh cho sự trong sáng của ngôn ngữ và hiện đại
hoá các thể loại vh.
Tlvđ dương cao ngọn cờ cá nhân đòi quyền sống ch con người,
đòi giải phóng cá nhân ra khỏi đại gđ phong kien và bảo vệ hạnh phúc đoi lứa
theo kiểu mới.
Tlvđ đã tiếp thu của cả phương Đông và phương Tây, của truyền
thống vh dân tộc để xây dựng một nên tiểu thuyết VN hiện đại.
Vd: hồn bươm mơ tiên hất không khí của truyện Nôm tk 18:
quan âm thị kính. Mô típ chú tiểu Lan gần gũi với mô típ Thị Kính giả trai đi
tu. Còn cái tên hồn bướm mơ tiên đầy chất thơ và màu sắc triết học thì lại bắt
nguồn từ chuyện Trang Tử mơ thấy bướm.
TLVĐ có hoài bão về một nền văn hoá dân tộc và thực sự đã có
đóng góp lớn. Hoạt động văn chương lúc đó là chuyện sang trọng, thiêng liêng,
là lý tưởng sống của một lớp người. không làm đc cách mạng thì làm văn chương,
gửi tâm sự yêu nước vào tình yêu quê hương, yêu tiếng Việt. Cho nên người ta đã
đi vào văn chương với tất cả niềm say mê với tâm huyết của mình.
Có thể nói TLVĐ đã đóng góp rất lớn vào nền văn học dân tộc.
Họ có hoài bão ề văn học dân tộc. Họ có điều kiện nhưng khong thích con đường
làm quan, làm giàu mà đi vào chuyện văn chương.
Câu 4. Vẻ đẹp tâm hồn phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh qua
văn học việt nam 1945-1975
Hình nả nguoiwfphuj nữ trong văn học dưới ngòi bút của nhà
thơ có cách nhìn nhận khác nhau. Trong cách mạng không còn thấy những tiếng
than thân trách phận, những lời than thở đau buồn... người phụ nữ việt nam trong
văn học hiện đại 45-75 đã trở về với nét đẹp giản dị đời thường và với công việc
thường nhật.
Hình nahr người phụ nữ trong thơ ca giai đoạn này không hẳn
là đề tài chính. Hẳn trong mỗi chúng ta không ai quên đc hình ảnh người mẹ với nét cười đen nhánh sau tay áo,trong ánh trưa hè trước giậu thưa trong
thơ của Lưu trọng lư càng không thể quên đc nét đằm thắm dịu dàng của người mẹ
“khuyên ành áo thắm,áo the nâu “ của đoàn văn cừ. Trong thơ nguyễn bính với nét
đẹp ủa người mẹ viên nam ruyền thống tần tảo, đảm đang,, giàu yêu thương và đức
hy sinh. Ai như mẹ trong ngày tết biết lo toan, vun vén như thế này? “ giết lợn đồ xôi, lại giết gà/ cỗ bàn
xong cả từ hôm qua/ suốt đem giao thừa mẹ tôi thức/ lẩm nhẩm cầu kinh đức chúa
ba” (tết của mẹ tôi – nguyễn bính)
Thời kỳkháng chiến 45-75
Người phụ nữ thoát ra khoi vòng cường toả của lễ giáo phóng
kiến để hoà mình vào công việc chung của đát nước. Đó là những cô thanh niên
xung phong trên tuyến đường lửu Trường sơn “Em
đúng bên đường như quê hương/vai ao bạc quàng súng trường” (LÁ Đỏ - Nguyễn
Đình Thi).
Khác với Nguyễn Du đã treo lở lững một câu hỏi lớn: “đau đớn thay phậnđàn bà/ kiếp sinh ra thế
biết là tại đâu?. Nay nhà thơ Huy Cận đại diện cho dân tộc trong bài thơ “
ca ngợi phụ nữ VN” (1966) viết “ chị em
tôi toả nắng vàng lịch sử/ NẮng cho đời nên cũng nắng cho thơ” Nhà thơ như
hoá thân vào người phụ nữ để tử vào và nhủ thầm rằng: trong cuoocj sống hôm nay
phụ nữ là một phần của lịch sử, họ toả năng cho cuôc đời, cảm hứng cho thi sĩ.
Sự hi sinh anh dũng của các chàng trai
và cô giai trong đổ tuổi thanh xuân –đó cũng là một vùng thẫm mĩ quyen thuộc
cho các nha thơ thời chiến hướng tới.
Văn học cảu thời kỳ kháng chiến chống mỹ đã ghi lại nhiều
hình ảnh đẹp, chân thực, cao cả của các cô gái thanh niên xung phong. Như trong
thơ của phậm Tiến Duật (truong son đông, trường sơn tây), Lâm thị Mỹ
Dạ( khoảng trời và hố bom), Ngôi sao sao lẻ loi cảu Nguyễn Đình Thi.... Truyện ngắn : Những ngôi sao xa xôi của Lê
Minh Khuê góp phần thêm chân dung đẹp, c.hân thưc và sinh đông cảu nền van học một thời. truyện có 3 nhân vật: Phương Định, Nho và
Thao. Ba cô gái đã phá bốn bom ở vùng trọng điểm, căng thảng hồi họp khi Nho bị
sập hầm, bị thương. Những ngoi sao xa xôi là chủ nghia anh hùng và tâm hồn
trong sang cảu những cô gái thanh niên xung phong ở vung trọng điểm trwn đường
Trương Sơn.
Nguyên Thi có tác phẩm
“người mẹ cầm súng” “ những đáu con trong gia đình”. Trong tp : Người Mẹ cầm
súng” có chị Út Tịch vô cùng gan góc và coá tính Chiến đấu cao. Chị út nói “ còn
cái đai quần cũng đánh”.
Thời kỳ kháng chiến 1945 - 1975
Trong không khí của cuộc cách mạng sục sôi
và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hơn bao giờ hết hình ảnh người phụ nữ hiện
lên với vẻ đẹp mới - vẻ đẹp của những con người đã được giải phóng, được tháo
ra khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến của thời, để hòa mình vào công cuộc
chung của đất nước. Đó là những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường
Sơn “Em đứng bên đường như
quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường” (Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi )
hoặc có thể là những cô gái Nam Bộ “dịu
dàng như những nàng tiên”, là những “cô du kích, giao liên” của chốn
quê hương gian khổ mà anh dũng trong “Trở về quê nội” - Lê Anh Xuân… Tất cả đều
hiện lên đẹp đẽ bởi mang trong mình hồn thiêng của sông nước. Khác với Nguyễn
Du đã từng treo lơ lửng một câu hỏi lớn: “Đau
đớn thay phận đàn bà / Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”. Nay, là
người đại diện cho dân tộc, nhà thơ Huy Cận trong bài thơ “Ca ngợi người phụ nữ
Việt Nam” (1966) viết: “Chị
em tôi tỏa nắng vàng lịch sử/ Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”.
Nhà thơ như hóa thân vào người phụ nữ để tự hào mà nhủ thầm rằng: trong cuộc sống
hôm nay, người phụ nữ là một phần của lịch sử, họ tạo nắng cho nhân gian và tạo
nắng cho thơ - nghĩa là họ làm đẹp cho cuộc đời, họ cũng là cảm hứng của thi
sĩ...
VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY TRONG
VĂN HỌC
LÊ XUÂN
VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY
TRONG VĂN HỌC
Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam in đậm dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời
gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.
Phụ nữ Việt Nam (PNVN) từ xưa tới nay vốn mang vẻ đẹp thầm lặng thoang
thoảng như hương quế giữa rừng xa:
Em như cây quế giữa rừng
Ngát
thơm ai biết, lẫy lừng ai hay.
Đó là vẻ đẹp chân
quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu đào tơ,
là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì
nam giới. Họ là một nửa của cuộc sống nhân loại. Nhà văn M. Gôrky (người
Nga) đã nói: Không có mặt trời thì hoa không nở/ Không có mẹ hiền, anh hùng,
thi sĩ hỏi còn đâu?.
Từ xưa, phụ nữ ta đã có truyền thống chống ngoại xâm: Giặc đến nhà đàn
bà cũng đánh. Trong cuộc dựng nước và giữ nước đã có nhiều phụ nữ nổi tiếng
như: Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan… đã làm cho quân giặc nhiều phen bạt vía kinh
hồn. Hai Bà Trưng đã từng:
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thùy.
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu hy
sinh anh dũng của các chị: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Thị Bưởi,
Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Chiên, Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Tuyển, Nguyễn Thị
Hằng, Võ Thị Thắng, chị Út Tịch, mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà Nguyễn Thị Định, Nguyễn
Thị Bình, Trương Mỹ Hoa v.v. Quyết tâm đánh giặc đến cùng của các mẹ, các chị
là Còn cái lai quần cũng đánh (Người mẹ cầm súng – Nguyến Thi)
Trên lĩnh vực Văn học Nghệ thuật, Giáo dục, Khoa
học… nhiều phụ nữ là những nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ nhạc sĩ, kỹ sư, bác
sĩ, tiến sĩ tài năng như: Diệu Nhân (người Phú Thọ)- một thiền sư, nữ sĩ
thời Lý; Nguyễn Thị Duệ (người Chí Linh- Hải Dương, bà Huyện Thanh Quan (tức
Nguyễn Thị Hinh), người Hà Nội- một nhà thơ tài hoa ở thế kỷ thứ XIX; bà Bảng
Nhãn (tức Lê Thị Liễu)- nữ sĩ nổi tiếng ở đất Quảng Nam; và các nhà thơ như Hồ
Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… cho tới Anh Thơ, Vân Đài, Mộng Cầm, Sương Nguyệt
Ánh, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Thuý Bắc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thị Xuân
Qúy v.v.
Trên bất kỳ lĩnh vực nào, ở giai đoạn lịch sử nào ta cũng đều bắt gặp tên tuổi
của những phụ nữ nổi tiếng, làm vẻ vang dân tộc. Cả thế giới đều tôn vinh phụ
nữ. Chúng ta hãy nhìn lại những quan niệm về vẻ đẹp của người PNVN xưa và nay.
Vẻ đẹp ấy biểu hiện qua hình thể, lý tưởng và lẽ sống, trí tuệ và tâm hồn. Hay
nói một cách khác đó là vẻ đẹp về hài hoà giữa hình thức và nội dung
Trước CMT8 phần lớn PNVN nhuộm răng đen, búi tóc đuôi gà, mặc áo tứ
thân, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao… Ca dao-dân ca, thơ văn, nhạc hoạ đã
ghi lại:
Một yêu tóc bỏ đuôi gà
Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên
Ba
yêu má lúm đồng tiền
Bốn yêu răng nhuộm hạt huyền thêm xinh
Năm yêu con mắt hữu tình…
Hay như những câu:
“Những người con mắt lá dăm/ Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”
“Ai làm cái nón quai thao/ Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.
“Ngó lên đầu tóc em bao/ Chéo khăn em bịt dạ nào chẳng xiêu”.
“Cô kia bới tóc đuôi gà/ Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?”
“Bước lên xe đầu đội khăn rằn/ Dáng đi yểu điệu, ngồi gần say mê”
“Răng đen ai nhuộm cho mình/ Để duyên mình đẹp, để tình mình ưa”
“Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.v.v…
Hoặc trong thơ Nguyễn
Bính:
Nào
đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đủi nhuộm hồi sang xuân
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? (Chân quê).
Một thời cha ông ta lại quan niệm người phụ nữ có khuôn mặt chữ điền mới
đẹp Mặt chữ điền lắm tiền nhiều ruộng. Đó là vẻ đẹp phúc hậu, đã từng đi
vào thơ Hàn Mặc Tử: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt
chữ điền (Đây thôn Vĩ Dạ). Đến thời hiện đại vẻ đẹp bên ngoài của người phụ
nữ thật lắm màu nhiều sắc. Cái áo tứ thân của mẹ ta xưa đã được cách điệu thành
áo dài với nhiều kiểu dáng. Tà áo em bay bay, bay bay trong nắng dịu dàng/
Aó bay trên đường như mây xuống phố/ Áo trên sân trường tựa cánh chim câu. Đẹp
biết bao quê hương cho em chiếc áo nhiệm màu! (Một thoáng quê hương - Từ
Huy và Thanh Tùng).
Nhà thơ Nguyễn Duy đã đã nhớ lại một thời áo trắng sân trường:
Thướt
tha áo trắng nói cười
Để ta thương nhớ một thời áo nâu (Áo trắng má hồng).
Nhà thơ Lê Đình Cánh
thì:
Ở đâu tôi cũng phải lòng
Những cô thôn nữ nâu sồng
áo quê (Cảnh
nghèo)
Còn nhà thơ
Phạm Đình Ân lại bị hút hồn bởi chiếc áo nâu của cô gái:
Anh yêu áo trắng, áo hồng
Lại càng yêu đến vô cùng: áo nâu! (Áo nâu)
Hoặc anh cảm
nhận được vẻ đẹp nền nã của chiếc áo đen mà em đã mặc trong cái thuở ban
đầu:
Aó đen ai mặc tình cờ
Để cho ai nhớ bây giờ ai quên?
… Thanh tao nào phải kén màu
Sắc đen ngậm ánh sáng vào bên trong… (Áo đen).
Nhà thơ Bùi Văn Bồng
trong một buổi chiều tà bên bờ sông Hậu khi nhìn thấy cô gái Nam Bộ mặc áo bà
ba, chèo xuồng ba lá đã quên cả lối về, vì đã quá đam mê trước vẻ đẹp của tà áo
diệu kỳ này:
… Dòng sông thì rộng mênh mông
Aó em lại thắt eo hông làm gì
Khen ai khéo chít đường ly
Để cho tà áo thầm thì lời quê.
(Aó bà ba)
Vẻ đẹp của chiếc áo
bà ba ấy cũng đã hơn một lần được nhạc sĩ Nhật Trường- Trần Thiện Thanh ngợi
ca: Chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm/ Em gái Ninh Kiều tóc dài chấm
lưng thon.
Nhưng có lẽ vẻ đẹp lâu bền nhất của người con gái và có sức quyến rũ lạ kỳ là
cái duyên ngầm. Chẳng thế mà khi chồng giận, cô gái đã khéo nhỏ nhẹ:
Chồng
giận thì vợ làm lành
Miệng cười tủm tỉm: rằng anh giận gì?
chứ không như cô gái
khác quá vội vàng và dứt khoát để chia tay:
Đất xấu vắt chẳng nên nồi
Anh đi lấy vợ để tôi lấy chồng.
Hoặc có cô thẳng
thừng tuyên bố:
Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời cầm tay.
Hạnh phúc của vợ
chồng, của gia đình đôi khi chỉ vì một sự tự ái, một chút nghi ngờ thiếu cảm
thông là có thể đổ vỡ. Nhưng đa số PNVN rất giàu lòng vị tha và có đức hy sinh.
Có người đã tự hạ mình xuống tận cùng để giữ gìn hạnh phúc:
Chàng
ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
Hoặc có khi hạnh phúc
đã tan vỡ, người vợ đã chia tay anh chồng phụ bạc rồi nhưng vẫn còn
khuyên và lo cho anh:
Anh
về lấy vợ bên sông
Còn tôi tơ tưởng lấy con ông lái đò
Phòng khi sóng cả, gió to
Để tôi còn kịp chở đò đưa anh.
Anh đã có vợ khác,
tôi đã có chồng, nhưng tôi vẫn độ lượng cứu giúp anh những lúc thất cơ lỡ
vận, khi anh gặp phải cảnh cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt.
Thế mới biết tấm lòng vị tha của PNVN đẹp biết chừng nào!
lúa
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đã làm một cuộc đổi đời cho dân tộc. Những
cô yếm thắm răng đen, sột soạt quần nâu, mặc áo tứ thân đã cầm súng, cầm cuốc
đi phá đường, cản bước tiến của thực dân Pháp, gác lại mọi chuyện gia đình:
Nhà em phơi chưa khô
Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan. (Tố Hữu)
Họ là những phụ nữ ba
đảm đang, ba sẵn sàng việc nước, việc nhà để chồng con yên tâm đánh giặc.
Đã có biết bao bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ Ba lần
tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ/ Các anh không về, mình mẹ lặng im
(Tạ Hữu Yên). Có mẹ ở Hà Bắc đã vá hơn hai trăm chiếc áo cho bộ đội, chiến sĩ: …Tấm
áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc/ Để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc/ Quần
nhau với giặc, áo con rách thêm/ Nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá áo/
Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo/ Đời mẹ nghèo thương áo rách/ Áo
rách nên thương/ (Nguyễn Văn Tý). Người mẹ trong bài thơ Đất quê ta mênh
mông của Dương Hương Ly đã Ðào hầm từ lúc tóc còn xanh/ Nay mẹ đã phơ
phơ đầu bạc/ Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác/ Bao đêm ròng tiếng cuốc vọng năm
canh. Tấm lòng mẹ rộng mênh mông như luỹ như thành, có thể dấu cả sư
đoàn dưới đất. Chính những việc làm tưởng như nhỏ nhoi của các mẹ, các chị
đã góp phần làm nên một Dáng đứng Việt Nam, một sức mạnh Việt Nam tạc
vào thế kỷ. Những bà má ở Hậu Giang, bà Bầm ở Trung du, bà Bủ ở Việt Bắc,
mẹ Tơm ở Thanh Hoá, mẹ Suốt ở Quảng Bình, chị Út Tịch ở Cầu Kè, Trà Vinh… và
biết bao các mẹ, các chị đã đi vào thơ ca, nhạc, hoạ. Chị Út Tịch với quyết tâm
đánh Mỹ đến cùng Còn cái lai quần cũng đánh. Những cô gái người Pa cô,
Vân Kiều đi tải đạn, và tay vót chông miệng hát không nghỉ. Những cô gái
Châu Yên ở Tây Bắc với bàn tay vén khéo Đụng vào khung cửi vải thành hoa/
Vung nắm tấm hoá ra đàn gà, thế mà các cô đã dùng súng trường hạ thần
sấm, con ma của không lực Huê kỳ. Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh),
tuổi đẹp như trăng rằm từ 18 đến 20 đã ngã xuống để làm xanh một khoảng trời
con gái (Lâm Thị Mỹ Dạ). Nhiều cô gái Em ở nông trường hay ra biên giới
miệng vẫn hát vang lời ca Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao!
Những cô giáo ở Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên hay ở vùng sâu, vùng xa hy sinh
cả tuổi xuân để đem chữ Cụ Hồ tới đàn em thơ ở các bản làng dân tộc xa xôi, hẻo
lánh. Cô giáo người Tày Tô Thị Rĩnh đã dùng tiếng đàn để thu hút các em học
sinh người Hmông tới lớp, lấy đồng lương ít ỏi của mình để mua tập vở cho các
em. Ta hãy nghe lời tự hát, tự ru lòng mình đến rơi nước mắt của các cô
giáo ở một bản làng heo hút vùng cao:
Ở rừng tự hát ru nhau
Lá trầu chị héo, quả cau em già
Ước ao có một gian nhà
Có trưa đưa võng đón bà lên chơi… (Em đi - Lê Đình Cánh).
Những người PNVN đẹp
trong lao động, đẹp trong chiến đấu, và trong đời thường họ càng đẹp hơn. Người
vợ đã nén nỗi đau, tiễn chồng ra trận và hứa với anh: Lúa tốt lắm anh ơi/
Giải thi đua em giật (Trần Hữu Thung), vẫn luôn xoè bàn tay bấm đốt , nhìn
hoa bưởi, hoa chanh mà mong ngày anh về. Chị không mang nỗi buồn bi luỵ như
người chinh phụ xưa trong buổi tiễn đưa:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng
chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Chinh phụ ngâm)
Nhà thơ Phan Thị
Thanh Nhàn đã cảm nhận được vẻ đẹp kín đáo của một cô gái nông thôn gói bông
bưởi vào chiếc khăn tay tặng người yêu ngày mai ra trận: Nhờ hương thơm nói
hộ tình yêu…/Hai người chia tay sao chẳng nói điều chi/ Mà hương thầm
thơm mãi bước người đi. Nhiều cuộc chia tay đẹp như cánh nhạn lai bồng
dưới một trời phượng đỏ.
Những người mẹ, người vợ ở hậu phương luôn làm yên lòng
người đi chiến đấu. Nàng dâu và mẹ chồng càng thương nhau hơn: Phải đâu mẹ
của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà
em ơn mẹ suốt đời chưa xong… (Xuân Quỳnh). Người mẹ nào mà chẳng thấy mát
lòng hả dạ khi nghe những lời tâm tình của nàng dâu như thế! Người phụ nữ
hôm nay không còn là những cô gái xưa trong thơ Nguyễn Bính: Em là con gái
trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm với mẹ già. Họ cũng không hoá đá như
nàng Tô Thị xưa. Họ là một nửa của vẻ đẹp cuộc sống, và chiếm hơn 50% dân số
nhân loại.
Vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn của người PNVN ngày nay đã được nâng
lên một bước phù hợp với thời đại trong xu thế hội nhập toàn cầu, nhưng vẫn giữ
được tính dân tộc đậm đà. Họ vẫn phát huy vẻ đẹp của một thời anh hùng, bất
khuất, trung hậu, đảm đang và còn mang vẻ đẹp về trí tuệ. Nhiều chị em là
những giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ … ngang hàng hoặc vượt nam
giới. Những hoa hậu, á hậu, hoa khôi, người đẹp thời trang hôm nay là những
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, biết hát hay, múa giỏi, trả lời ứng xử
tinh thông. Họ không còn là những người đẹp trong cung cấm xưa để điểm tô cho
ngai vàng phong kiến. Họ đang viết tiếp trang sử oanh liệt của Bà Triệu, Bà
Trưng dưới thời đại mới, và họ có mặt khắp nơi trên mọi nẻo đường của Tổ quốc.
Vẻ đẹp của người PNVN in dấu ấn đậm trong thơ ca,
nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ
đẹp của văn hoá dân tộc. Chúng ta hãy cùng chia sớt nỗi đau của các mẹ,
các chị trong quá khứ, và cùng vui, cùng tự hào với những gì mà các mẹ, các chị
đã góp phần làm nên vẻ đẹp của phụ nữ trong cuộc sống hôm nay và mai sau.
Nội dung bài viết rất đáng chú ý, bạn có thể xem một số thông tin liên qua có ích dưới đây:
Trả lờiXóađại lý đệm cao su liên á tại hà nội lienahanoi.vn
đệm lò xo vạn thành bảng giá demvanthanh.com
gối cao su non liên á lienahanoi.vn
Thông tin liên quan dưới đây bạn có thể tham khảo qua:
Trả lờiXóavõng xếp trẻ em duy phương thegioivong.vn
Đệm sông hồng thegioidembongep.com
nệm cao su bông ép kim cương titanium gấp 3 thegioidembongep.com